Peter Doherty
“Khi bạn vấp ngã, chớ vội thoái lui, hãy làm lại từ đầu!”
Cùng với Rolf Zinkernagel ông đoạt giải Nobel chung  về Sinh lý học - Y học năm 1996 và được bình chọn danh hiệu Công dân Úc  năm 1997. Nhưng có lẽ những thành công kể trên sẽ không thể có được nếu  Peter Doherty không lựa chọn cái nghề, mà vào thời đó, người ta cho là  nghề chẳng giống ai.
Lúc còn bé, tôi luôn cảm  thấy mình là một kẻ thất bại. Tôi lớn lên ở miền Bắc nước Úc. Ở đây thời  tiết cực kỳ oi bức, mật độ tia cực tím dày đặc. Do vậy, màu da trắng  dân Ai-len của tôi không thích hợp với thành phố nổi tiếng nóng bức này.  Bạn có thể thấy điều đó thể hiện rõ qua nước da của những người trên 40  tuổi ở đây - một lớp da trông giống như da tê giác. Việc sống trong khí  hậu như thế là một hạn chế ngăn tôi tham gia vào các môn thể thao ngoài  trời mà người Úc rất thích. Tôi không biết cách ném hay bắt một quả  bóng. Đơn giản là tôi không hòa hợp với môi trường xung quanh. Còn tệ  hơn nữa, đó là tôi không thể hòa hợp với xã hội. Phần lớn thời gian của  tôi dành vào việc đọc sách, đọc bất kỳ thứ gì mà tôi vớ được. Bầu không  khí nước Úc những năm 50 và đầu những năm 60 rất buồn tẻ. Tôi sống ở đó,  quan tâm đến những điều chẳng ai thèm để ý như một kiểu tự do cá nhân.
Tôi sống khép kín, không thể thân thiện với bạn bè đồng trang lứa cũng như mọi người xung quanh và nhìn đời một cách bi quan.
Năm  17 tuổi, tôi đi thẳng từ trung học lên nghiên cứu về lĩnh vực thú y. Rõ  ràng là tôi quá trẻ đối với một quyết định như vậy. Thời điểm đó, nước  Úc chủ yếu phát triển dựa vào nông nghiệp, mọi người không có đủ lương  thực để ăn và tôi say mê với ý tưởng nghiên cứu về thực phẩm chế biến từ  động vật, một lĩnh vực còn khá mới mẻ đối với thế giới.
Phải  mất đến ba năm tôi mới có thể học hết những môn khoa học cơ bản một  cách đầy đủ và cặn kẽ. Tuy vậy, đối với tôi, việc tiếp xúc và gần gũi  với chó mèo quả thật kinh khủng. Tôi chẳng mảy may xúc động khi một con  chó hay con mèo nào đó vừa chết đi. Và tôi bị stress. Như hầu hết những  sinh viên khác, tôi uống bia để giải tỏa căng thẳng và quên đi nỗi ám  ảnh. Tôi thấy mình thật sai lầm khi chọn ngành thú y. Biết đâu nếu chọn  lĩnh vực văn chương hay ngôn ngữ học, có lẽ tôi đã tốt nghiệp một cách  nhẹ nhàng rồi cũng nên.
Tuy nhiên, nhìn ở một  góc độ khác thì chính cái nghề không được ưa chuộng vào thời đó là ngành  thú y lại đưa tôi vào một lĩnh vực mà tôi có thể đi sâu vào tìm hiểu và  nghiên cứu. Nếu lúc đầu tôi chọn lĩnh vực khác, có lẽ tôi đã không đạt  được giải Nobel.
Trong khi nghiên cứu về thú y,  tôi gặp phải một số bế tắc mà bất cứ ai cũng có thể gặp phải. Đó là khi  bạn đạt đến một giới hạn nhất định, nhưng bạn lại không thể vượt qua.  Thường là do công nghệ hay những sáng chế chưa được phát minh để đáp ứng  nhu cầu của bạn.
Có thể trong quá trình tìm  kiếm, bạn không tìm thấy cái  bạn cần, nhưng bạn lại tình cờ phát hiện  ra một điều khác mà có lẽ bạn sẽ chẳng bao giờ gặp được nếu bạn không có  cuộc tìm kiếm ban đầu. Đề tài chúng tôi đoạt giải Nobel cũng xuất hiện  tình cờ như thế. Số là chúng tôi chuẩn bị một công trình nghiên cứu về  một chủ đề nọ, nhưng trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi lại phát hiện  ra một điều khác. Kết quả vừa tìm thấy đó tuy không đúng như sự suy  đoán ban đầu nhưng lại thú vị đến mức chúng tôi lao vào nghiên cứu một  cách say mê. Chúng tôi đi theo hướng mới này trong vài năm. Kết quả nó  trở thành công trình đoạt giải Nobel.
Tất nhiên  trong quá trình nghiên cứu cũng xảy ra một vài trục trặc. Nhưng chúng  tôi đã kịp thời khắc phục, và cuối cùng đã công bố được những khám phá  quan trọng của mình. Lúc đầu, mọi người không hiểu vấn đề. Sau khi hiểu  ra, họ đã công nhận kết quả của chúng tôi. Và sự kiện này đã làm thay  đổi toàn bộ quan điểm của ngành miễn dịch học.
Chúng  tôi đưa ra một thuyết mới xung quanh vấn đề này. Nhưng phải mất một  thời gian dài để chứng minh lý thuyết đúng, bởi vào thời điểm đó, kỹ  thuật mới chưa phát triển kịp. Hầu hết các công trình nhằm chứng minh  cho lý thuyết của chúng tôi được tiến hành bởi những nhà khoa học thuộc  các lĩnh vực khác nhau.
Có một điều chắc chắn là  nếu bạn đang thử nghiệm những điều mới mẻ, những điều trước đây chưa  từng tồn tại, chưa được ai thực hiện, thì phần lớn những thử nghiệm của  bạn đều không mang lại kết quả gì. Vì thế, bất kỳ ai khi tham gia nghiên  cứu đều phải bền chí, kiên gan. Thường thì bạn sẽ gặp thất bại về mặt  kỹ thuật hoặc quy trình. Hoặc kết quả đúng với mục tiêu ban đầu đặt ra,  nhưng chúng lại chẳng có gì thú vị như bạn đã kỳ vọng. Tất cả các nhà  khoa học đều phải đương đầu với điều này, có lẽ vì thế mà điềm tĩnh và  kiên trì là một phần tính cách không thể thiếu của các nhà nghiên cứu  khoa học. Để có được một thành công, trước đó những nhà khoa học cũng  không ít lần nếm mùi thất bại. Do vậy, hai từ “thất bại” trở nên rất  quen thuộc với họ. Trong khi hầu hết những người khác trong xã hội đều  đi theo một quy trình dẫn đến kết quả có thể đoán biết trước thì các nhà  nghiên cứu không như vậy. Bởi nếu chúng tôi cũng giống như những người  khác, biết trước kết quả, thì chúng tôi không phải là những người có khả  năng phát minh hay sáng tạo.
Tuy giải Nobel là  phần thưởng tuyệt vời công nhận thành quả lao động của chúng tôi, nhưng  tôi không xem đó là thành công lớn nhất. Với tôi, thành công vĩ đại nhất  chính là những trải nghiệm giúp tôi khám phá thế giới và giải Nobel chỉ  là hình thức công nhận những khám phá mà thôi.
Nguồn: Vượt lên chính mình 2 - First News và NXB Tổng hợp TP.HCM
Bill Walton
“Người biết học hỏi từ thất bại là người thật sự có năng lực.”
Ngoài ra anh đã ba lần nhận được giải thưởng “Cầu thủ  giỏi nhất trong năm” do NCAA bình chọn, ba lần đoạt danh hiệu “Cầu thủ  của các trường đại học Hoa Kỳ”, là người thắng cuộc trong giải  “Sullivan” dành cho cầu thủ bóng rổ không chuyên vào năm 1973.
Không  chỉ thế, khi là vận động viên chuyên nghiệp, anh đã dẫn dắt đội  Portland Trailblazers đạt được danh hiệu NBA, vinh dự đứng vào hàng ngũ  những vận động viên sáng giá nhất năm 1978. Năm 1997, William Theodore  Walton được bình chọn là một trong 50 vận động viên vĩ đại nhất qua mọi  thời đại. Ngày nay, Walton là một trong những nhà bình luận thể thao có  uy tín nhất trên các kênh truyền hình. Và đằng sau những thành tựu rực  rỡ như thế, bạn có biết Walton đã trải qua những gì hay không?
Tật  nói lắp đã ảnh hưởng rất lớn đến cuộc đời tôi. Tôi luôn gặp phải khó  khăn khi giao tiếp bằng lời nói. Tôi không thể diễn đạt những suy nghĩ  của mình một cách bình thường như bao nhiêu người khác. Tôi cảm thấy xấu  hổ về tật nói lắp của mình và điều đó làm cho chứng nói lắp ngày càng  trở nên nghiêm trọng hơn. Giống như một cơn ác mộng luôn ám ảnh trong  tôi, nó khiến tôi thiếu tự tin và không tài nào đọc được cho mãi đến năm  28 tuổi.
Trong suốt thời gian đó, bóng rổ là  nơi trú ngụ an toàn, là niềm an ủi cho những khiếm khuyết của tôi. Cũng  có thể ví von nó như một tín ngưỡng của tôi. Từ nhỏ, tôi đã chơi bóng  trong khuôn viên nhà thờ, cạnh nhà tôi. Tôi gởi tất cả niềm say mê của  mình vào môn bóng rổ. Đó cũng là cách tôi trốn tránh việc rèn luyện kỹ  năng giao tiếp với mọi người. Tôi chơi bóng rổ rất khá và nghĩ rằng thế  là tôi có thể quên đi những điểm yếu của mình. Tôi quyết tâm trở thành  một vận động viên bóng rổ xuất sắc và nỗ lực hết mình để thực hiện mục  tiêu đó.
Mãi sau này, khi tôi phải chia tay với  môn bóng rổ vì những chấn thương nặng đến mức không thể chơi bóng được  nữa, tôi mới biết cuộc sống có những con đường rộng lớn hơn chứ không  chỉ gói gọn trong sân bóng. Nhưng trước đó, rõ ràng đội bóng rổ của  trường Đại học California Los Angeles là tất cả đối với tôi. Chúng tôi  nghĩ mình là những con người tuyệt vời, là cầu thủ bóng rổ của toàn nước  Mỹ bởi đã thắng 88 trận liên tiếp. Thế nhưng hầu như mỗi ngày, huấn  luyện viên John Wooden đều nói với chúng tôi rằng, bóng rổ không phải là  tất cả. Lúc đó, chúng tôi đều cho những điều ông ấy nói thật là điên  rồ.
Nhưng dần dần chúng tôi hiểu ra rằng, ẩn sau  những bài học về chiến thuật khô khan của ông là bài học sâu sắc về  cuộc sống. Ông mong muốn chúng tôi trở thành những người thực sự có ích  cho xã hội chứ không chỉ đơn thuần là một vận động viên bóng rổ với mục  tiêu là ghi được nhiều bàn thắng.
Khi tôi gia  nhập đội Portland Trailblazers, những khái niệm như lòng tin vào đồng  đội, sự tự tin, lòng trung thành, tình bạn, tinh thần tập thể, tất cả  các yếu tố góp phần tạo nên sự vững mạnh của một đội bóng mà huấn luyện  viên John Wooden truyền đạt đều bị đảo lộn. Lầu đầu tiên trong đời, tôi  gặp phải một đội hình không có lấy một chút tinh thần tập thể mà chỉ có  sự ích kỷ, hung hãn và những kẻ lắm tiền. Tôi không thể tưởng tượng được  cuộc sống của mình lại đổi thay như thế, và cũng không thể hòa mình vào  môi trường ấy.
Rồi tình hình cũng được chuyển  biến khi ông Jack Ramsey đảm nhiệm vai trò huấn luyện viên. Nhưng thời  hoàng kim đó chỉ kéo dài được khoảng một năm và kết thúc nửa năm trước  khi vết chấn thương ở chân tôi tái phát. Đó là vết chấn thương kinh niên  nhưng tôi lại bị cáo buộc là giả bệnh để nghỉ thi đấu. Điều này làm tôi  thật sự thấy khủng hoảng và mất niềm tin vào tất cả.
Những  thương tổn tôi phải chịu đựng khi theo đuổi nghiệp bóng rổ đã tàn phá  sức khỏe tôi nghiêm trọng. Tôi không biết điều gì đang đợi mình phía  trước. Bác sĩ bảo rằng tôi có vấn đề về tinh thần, họ cho tôi đi thôi  miên rồi chuyển tôi đến chuyên gia tâm lý để chữa trị chứng mất niềm  tin.
Lúc này tôi không thể chạy, thậm chí đi  cũng không xong, bởi tổn thương không chỉ nằm trong tâm trí tôi. Vì chơi  bóng rổ quá nhiều, tôi bị kiệt sức. Tôi phải dùng một liều lớn  Xylocaine - một loại thuốc giảm đau. Sau đó tôi xuất viện và tiếp tục  thi đấu. Thế là chẳng bao lâu xương chân tôi bị nứt làm đôi.
Khi  được chuyển đến đội Clippers ở thành phố San Diego, tôi đang trong tình  trạng không thể thi đấu. Hễ gắng chơi bao nhiêu là sức khỏe tôi lại sa  sút bấy nhiêu. Tôi ngưng không chơi một thời gian thì tình trạng sức  khỏe chuyển biến tốt hơn. Thấy thế, tôi chơi bóng rổ lại và hậu quả  là... suýt bị gãy chân.
Sau đó, tôi đầu quân cho  đội Boston Celtics, nơi hai cầu thủ huyền thoại Red Auerbach và Larry  Bird đã giúp tôi tìm lại vinh quang nghề nghiệp và lẽ sống của mình. Đến  tận lúc đó, bóng rổ vẫn là tất cả của đời tôi. Tôi hăng say tập luyện  để có thể trở thành vận động viên giỏi nhất.
Nhưng  bệnh tật vẫn luôn đeo bám tôi dai dẳng. Ngày 15 tháng 3 năm 1990, các  bác sĩ mổ mắt cá chân tôi và cho biết tôi phải vĩnh viễn giã từ môn bóng  rổ. Tôi không còn được chạy nhảy hò la trong sân bóng nữa. Không bao  giờ còn được cảm nhận làn gió thổi xuyên qua tóc và sự ngọt ngào khi  chìm đắm trong men say chiến thắng. Và cũng không bao giờ có cơ hội được  thúc khuỷu tay vào mạng sườn của đồng đội rồi lao vào tiếp tục chiến  đấu. Như một giấc mơ, tất cả đã kết thúc với tôi. Tôi thực sự cảm thấy  lo sợ, sợ cái chết đến bất thần không cho tôi cơ hội khám phá những điều  mới mẻ đang chờ phía trước.
Nỗi đau về thể xác  cũng qua đi đồng thời tinh thần tôi cũng lắng dịu những cảm xúc bi quan,  chán chường. Tôi chợt nhớ đến lời dạy của thầy John Wooden, không phải  chỉ với bóng rổ chúng tôi mới có thể cống hiến cho xã hội. Có thể bóng  rổ là một quãng đời đầy vinh quang của tôi, nhưng nó không phải là tất  cả, tôi vẫn có thể thành công trong những lĩnh vực khác. Kỳ lạ thay, đó  lại chính là lĩnh vực nghề nghiệp sử dụng kỹ năng mà tôi kém cỏi nhất.
Năm  28 tuổi, tôi tình cờ gặp Marty Glickman, phát thanh viên của “Nhà kỷ  niệm những cầu thủ bóng rổ nổi tiếng”. Trong cuộc trò chuyện ngắn ngủi  đó, (nói đúng hơn là Marty nói còn tôi thì chỉ biết nghe), Marty giải  thích cho tôi một cách ân cần và súc tích rằng trò chuyện hay giao tiếp  với người khác là một kỹ năng. Điều đó cũng giống tất cả những kỹ năng  khác như thể thao, âm nhạc, kinh doanh... đòi hỏi bạn phải trải qua quá  trình rèn luyện lâu dài, thậm chí cả đời, bằng sự kiên trì, gian khổ  cùng những kỷ luật khắt khe.
Marty chỉ cho tôi  một số mẹo và khuyến khích tôi áp dụng vào những bài học mà tôi đã từng  được dạy trước đây, đặc biệt là từ sáu huấn luyện viên bóng rổ được lưu  danh tại “Nhà kỷ niệm những cầu thủ bóng rổ nổi tiếng”. Sự khởi đầu cuộc  đời mới của tôi đơn giản như vậy đó.
Ở đây  chẳng có một thủ thuật, bí quyết, hay một biện pháp cấp thời nào mà chỉ  là vấn đề nhận thức, rằng với một ít hướng dẫn và giúp đỡ của người  khác, cộng với sự cố gắng nỗ lực của bản thân, thì tôi sẽ làm được những  điều mà người khác làm được. Sau một thời gian luyện tập, từ một người  hoàn toàn không thể nói năng lưu loát, dù chỉ là một lời cảm ơn, tôi trở  thành người tường thuật các chương trình thể thao truyền hình và có khả  năng diễn thuyết trước công chúng.
Nếu người  khác có thể làm được tại sao tôi lại không? Hãy tiến tới phía trước và  đừng sợ phải thất bại. Khi bạn vấp ngã, chớ vội thoái lui, hãy làm lại  từ đầu. Hãy tìm ra bước chạy của bạn, nhịp điệu của bạn và trận đấu của  bạn. Không ai không mắc sai lầm. Những gì ta làm sau khi đã mắc sai lầm  sẽ quyết định thành công của ta sau này. Số lần phạm lỗi khi thực hiện  một pha bóng chứng tỏ ta là một cầu thủ từng trải như thế nào, như một  câu nói chúng tôi thường dùng trong bóng rổ, đại ý nếu bạn không đủ kiên  định, bạn chẳng thể ghi bàn.
Giờ đây tôi nhận  thấy rằng hình như những gì diễn ra trong một đội bóng cũng sẽ diễn ra  trong đời thường. Các yếu tố cần cho một đội bóng từ việc chuẩn bị đến  hình thành, đào tạo được một cầu thủ bóng rổ... tất cả đều thể hiện rõ  nét trong từng bước đi của cuộc sống. Và những bài học của huấn luyện  viên Wooden trở nên vô cùng hữu ích, nhất là khi tôi trực tiếp đối diện  với những rắc rối và rủi ro trong cuộc sống của mình.
Mẹ  thường trêu tôi, những ai từng quen biết chú bé Bill Walton tóc đỏ, da  đốm tàn nhang với tật nói lắp, nay nếu có dịp ngồi cạnh anh ấy, họ lại  tưởng mình đang ngồi cạnh những nhân vật như Dick Enberg, Bob Costas,  Greg Gumbel và Marv Albert (các bình luận viên thể thao nổi tiếng của  Hoa Kỳ) trên các kênh truyền hình quốc gia.
Giờ  đây, cuộc sống của tôi đã được tô điểm bởi những sắc màu tươi tắn hơn,  tôi trở nên vui vẻ và linh hoạt hẳn, như thể chưa từng chịu đựng những  nỗi đau, hay sự ám ảnh của tật nói lắp trước đó. Cuộc sống thật kỳ diệu  biết bao, nếu chúng ta yêu cuộc sống hết mình, chúng ta sẽ tìm thấy ở đó  cả niềm vui lẫn hạnh phúc.
Tôi luôn cố gắng làm những gì tôi chưa biết và nhờ đó, tôi có thể làm được những điều tưởng như ngoài khả năng của mình.
Pablo Picasso
Nghịch cảnh là thước đo giá trị của một con người. Tôi trở nên mạnh mẽ hơn sau những khủng hoảng trong cuộc sống.
Lou Holtz
Thành công có nghĩa là thoát khỏi những nếp nghĩ cũ kỹ và chọn cho mình một hướng đi độc lập.
Keith DeGreen
Nhiều  người trong chúng ta từng lớn lên với suy nghĩ: lầm lỗi là một điều tồi  tệ và phạm sai lầm là biểu hiện cơ bản của sự thiếu năng lực. Lối suy  nghĩ tiêu cực đó có thể tạo ra những định kiến hẹp hòi làm hủy hoại cả  quá trình học hỏi của bản thân mỗi người. Để có thể đạt hiệu quả tối đa,  bạn hãy luôn tự hỏi: “Làm thế nào để có thể rút tỉa được những bài học  kinh nghiệm từ những sai lầm đã mắc phải?”.
Trích từ Lessons from the Art of Juggling của Michael Gelb và Tony Buzan
Nguồn: Vượt lên chính mình 2 - First News và NXB Tổng hợp TP.HCM
 
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét