Thứ Năm, 6 tháng 10, 2011

Truyện ngắn: Sông vắng

Mẹ nó đẻ thằng cu. Không như nó và con Hiền - hai đứa trẻ chào đời dưới chân cầu - thằng cu được đẻ trên bãi nổi. Thằng cu không phải là con của bố nó, cũng chẳng phải là con của bố con Hiền. Trong những cơn cáu vặt vì đủ mọi thứ chuyện trên đời, mẹ nó thường nguyền rủa ba người đàn ông. Rõ ràng là ba người đàn ông khác nhau.

Minh họa: Nuyễn Ngọc Thuần

Nó chưa bao giờ gặp bố nó, con Hiền chưa bao giờ gặp bố mình. Thằng cu rồi cũng vậy.

Đẻ thằng cu được hơn một tháng mẹ nó lại bắt đầu vào trong phố làm thuê. Mẹ nó giao thằng cu cho nó và con Hiền trông. Con Hiền vươn cổ ra cãi: “Đã đi bắt ốc rồi còn trông thằng này sao được?”. Mẹ nó bảo: “Ngày mỗi đứa chúng mày phải bắt ba bơ ốc, giờ trông thằng cu chỉ phải bắt một bơ. Cãi nữa thôi!”.

Thôi! Đi bắt ốc từ hồi còn bé tí xíu đến giờ chán mớ rồi. Nó và con Hiền đồng ý chia nhau trông thằng cu: Nó trông thằng cu từ lúc mẹ nó dậy đi làm đến sau bữa ăn trưa. Phiên của con Hiền bắt đầu từ lúc đó, kéo dài đến khi mẹ nó đi làm về.

Con Hiền trông thằng cu nhàn hơn nó. Con Hiền cho thằng cu bú ti mình. Ti của con Hiền gần giống như ti của mẹ nó; đã trắng nõn và sắp đầy cả ngực. Có thằng nào đó cho con Hiền một thứ được gọi là điện thoại di động. Ngày nào thằng đó cũng nói chuyện với con Hiền qua cái máy ấy. Trong lúc cho thằng cu ngậm ti mình, con Hiền thường nhá máy để thằng kia gọi lại. Nhiều lần nó nghe thấy con Hiền tả chi tiết cảm giác nhột ở ti, thằng kia luôn nói gì đó khiến con Hiền chửi bậy một tua. Mồm thì chửi nhưng con Hiền lại cười tủm tỉm.

Hầu như ngày nào cũng vậy, ăn tối xong, không phải làm gì con Hiền tự chèo thuyền vào bờ chơi. Chưa bao giờ con Hiền cho nó đi cùng vào bờ. Vậy nên buổi tối đối với nó thường là thời gian buồn nhất trong ngày, khi nó chẳng biết làm gì hơn là chui vào màn nằm bên cạnh thằng cu đợi cơn buồn ngủ đến.

Thế rồi bụng con Hiền to dần. Nó biết nhưng không lấy làm lạ. Mẹ nó ngày nào cũng đi đến sẩm tối mới về, chẳng để ý. Cho đến một buổi sáng sớm, con Hiền lên cơn nôn ọe đúng lúc mẹ nó dậy chuẩn bị vào phố làm thuê. Nó thấy mẹ chạy ra cửa lều nơi con Hiền đang cúi gập người nôn, hỏi han gì đó rồi hai mẹ con giằng co nhau. Con Hiền lấy tay che một bên má. Mẹ nó tát lia lịa vào má bên kia. Tát tới tấp một hồi, mẹ nó quấn tóc con Hiền, vừa lôi ra thuyền vừa quát: “Đi, đi giải quyết!”. Với một bên má đầy những vết ngón tay đỏ tía, con Hiền vào phố.

Xế trưa hai người trở về bãi nổi. Bụng con Hiền vẫn to y như cũ. Lần này cả hai má con Hiền đều hằn in những vết ngón tay đỏ tía.

Con Hiền cũng sinh thằng cu. Khi chưa có ai đặt tên cho thằng bé này, nó gọi tên sinh linh đó bằng một cái tên dài “Thằng Cu Của Con Hiền” để phân biệt với thằng cu của mẹ nó.

Con Hiền sau khi sinh thằng cu lớn phổng lên, không chịu ở ngoài bãi nổi bắt ốc nữa mà đòi vào phố làm thuê giống như mẹ. Nó phải trông cả hai thằng cu. Có những ngày bãi nổi vắng ngơ vắng ngắt, đến một con cò bay qua cũng không thèm đậu xuống. Nó thấy buồn rã rượi, chán ngơ chán ngẩn, chán đến giận cả sông lẫn cát. Nó chỉ ước trong lúc nó đang chán, có một chiếc thuyền chạy ngang qua để nó vẫy thuyền dừng lại đưa nó đi đến bất cứ nơi nào cũng được, miễn là không phải ở trên cái bãi nổi mênh mông buồn này cùng với hai thằng cu con nhếch nhác, quấy khóc.

Một buổi trưa nắng chang chang, nó dắt thằng cu lớn, bế thằng cu bé ra mép nước tắm. Ba đứa chúng nó đang ngâm mình dưới nước thì một chiếc xuồng gắn máy rẽ nước tiến đến. Một người đàn ông ở trên xuồng bước xuống chỗ mấy đứa chúng nó, hỏi những câu mà nó chỉ biết trả lời bằng những cái lắc đầu. “Bố mẹ các cháu đâu?”. Lắc đầu. “Sao lại đưa em bé ra sông chơi thế này?”. Lắc đầu. “Cháu có biết chơi như thế rất nguy hiểm không?”. Lắc đầu. “Cháu bao nhiêu tuổi?”. Lắc đầu.

Người đàn ông đeo trước ngực một vật màu đen to gấp chục lần cái máy di động của con Hiền. Thấy nó cứ nhìn cái vật đó bằng con mắt tò mò, ông ấy bảo với nó đó là máy ảnh. Ông muốn chụp ảnh mấy đứa chúng nó. Ông hứa chụp ảnh không đau. Nó đồng ý. Tách, chớp, tách, chớp. Ba đứa chúng nó đứng sát mép nước, trần truồng, gầy giơ xương, nhăn nhó, ngơ ngác...

Chụp ảnh xong người đàn ông lấy từ trên xuồng một hộp bánh và mấy lon nước ngọt đưa cho chúng nó. Nó thấy mến ông ấy, muốn đi cùng lắm nhưng không dám mở miệng nói ra điều đó. Chỉ khi ông ấy lên xuồng, bắt đầu rời khỏi chỗ đó, nó mới lấy hết can đảm gọi với theo: “Ông tìm bố cho cháu với! Tìm bố cho cháu!”.

Nó không biết ông ấy có nghe rõ lời nhắn nhủ của nó không. Nhưng nó tin nếu ông nghe rõ, thì ắt hẳn ông sẽ hiểu ông nên tìm bố cho cả hai thằng cu, và tìm bố cho cả con Hiền nữa. Tất cả chúng nó đều cần có bố.

Ngày qua ngày nó vẫn chờ người đàn ông ấy tìm bố cho chúng nó. Nó thậm chí đã mơ thấy bố nó đến đưa nó đi khỏi cái bãi nổi mênh mông buồn này. Nó không hề biết rằng một trong những bức ảnh người đàn ông ấy chụp ba đứa chúng nó bên mép nước đã giành được giải nhất tại một cuộc thi nhiếp ảnh quốc tế. Bức ảnh đó được đặt tên là Ám ảnh. Nó không biết ở đâu đó, người ta đã xây trường học cho những trẻ em ở một xóm vạn chài...

Truyện 1.151 chữ của NGUYỄN BÍCH LAN

Truyện ngắn: Người trong bão

Năm giờ chiều, tôi và Nhã nằm bên nhau trên chiếc chiếu trúc trong căn nhà ba tầng mới xây của chú Hảo tôi. Gió bão đã bớt dữ dội nhưng trời vẫn mưa như trút. Tiếng mưa dội vào mái tôn trên sân thượng được khuếch đại lên nghe như nhiều tiếng trống đánh cùng một lúc. Nhã buột miệng:

Minh họa: Hoàng Tường

- Nếu cứ mưa mãi như thế này suốt một tuần thì sẽ ra sao nhỉ?

- Thì chết sạch.

- Cậu có sợ chết không?

- Không, đang muốn chết đây.

- Buồn vì Hoàng phải không?

Tôi im lặng. Tôi không muốn Nhã buồn lây. Đang nhìn lên trần nhà, bỗng Nhã quay mặt sang phía tôi, hỏi:

- Cậu muốn chết như thế nào?

- Tớ muốn chết trong một cơn mưa. Mát mẻ và sạch sẽ.

Không cần suy nghĩ, tôi đáp như ngày xưa khi tôi và Nhã là những đứa trẻ chín mười tuổi rất lơ ngơ về đời và hễ bập vào chủ đề nào là y như rằng đẩy chủ đề đó đến điểm tận cùng với sự tưởng tượng ngớ ngẩn đến tức cười. Bây giờ tôi và Nhã đều đã bước sang tuổi ba mươi và chúng tôi không ai cười trước điều tôi vừa tưởng tượng ra.

Rất bất ngờ, Nhã nói:

- Mình nghĩ tốt nhất là được chết ở một nơi như trong cái lều giữa đầm sen của ông Bao. Một tối hít đầy hương sen, gió đầm, uống cạn những nậm rượu ông ấy treo quanh lều, say và chẳng biết gì nữa hết... để mặc mưa nhấn chìm mãi mãi... mãi mãi.

Tôi đập tay vào người Nhã:

- Cậu tự nghĩ ra được cái kiểu chết ấy đấy à, bà giám đốc bưu điện văn hóa xã?

- Mãi mãi, không phiền hà đến ai, không mang tiếng gì. Không ai bảo mình dại, không ai bảo mình thoái chí, chỉ thương mình xấu số...

Chủ đề đã được đẩy đến điểm tận cùng nhưng Nhã vẫn bám riết lấy nó bằng một giọng buồn đến rợn người. Tôi không chịu được, nhổm dậy chống khuỷu tay xuống chiếu nhìn Nhã. Trong ánh chiều đã nhòa đi vì màn mưa tôi nhận ra hai giọt nước mắt ứa ra từ khóe mắt Nhã. Tưởng tượng của tôi và một hiện thực nào đó của Nhã đã vênh nhau đến độ cần phải được tách bạch riêng rẽ. Tôi nghiêm túc hỏi Nhã:

- Cậu có chuyện gì?

Nhã quay mặt đi, nuốt những giọt nước mắt khác.

Tôi gặng hỏi:

- Sao? Giấu ai thì giấu nhưng không giấu tớ, đúng không?

Nhã gật đầu từ phía bên kia chiếu, rồi lời Nhã bật ra:

- Mình sắp chết.

- Cậu điên à, tuổi ba mươi là cái tuổi khó chết nhất đấy.

- Tớ bị u não. Phát hiện cách đây hai tháng. U mới chỉ nhỏ thôi. Giờ tớ chỉ thỉnh thoảng mới bị một cơn đau đầu dữ dội, thỉnh thoảng bị tê tay nhưng cơn đau rồi sẽ tăng, sẽ đau đến chết.

Nhã nói dồn dập. Tôi lặng đi như bị tê liệt. Tôi chấp nhận sự thật với những cái nuốt khan cay đắng. Tôi bảo Nhã:

- Phải đi mổ chứ.

- Ừ, nhưng có mổ thì khả năng thành công cũng rất thấp, kể cả có thành công cũng chỉ được một thời gian khối u vẫn lại mọc lên. Tóm lại là tốn kém, khổ mình, khổ mọi người mà kết cục vẫn thế.

Nhã đang khóc. Tôi không dám ôm Nhã. Tôi không dám nhìn Nhã. Tôi nhìn ra mưa. Mưa, tôi và Nhã. Bao giờ cũng là mưa, tôi và Nhã. Mưa rơi lộp độp trên những tàu lá chuối chúng tôi xếp trên những cành rào giả làm nhà. Mưa rơi rào rào trên tấm áo mưa tôi và Nhã che chung trên đường đi học.

Mưa mù mịt cả cánh đồng trùm lên tôi và Nhã, trùm lên những gồi cỏ chúng tôi chưa kịp thu nằm rải rác trên các bờ ruộng. Mưa chan chan trên mặt Nhã và tôi giữa cái ngày tôi làm phù dâu cho Nhã. Mưa hòa nước mắt tôi và nước mắt Nhã trên nghĩa trang trong cái buổi chiều đưa tang chồng Nhã. Mưa, tôi và Nhã trong không biết bao lần tôi buồn vì chờ đợi Hoàng.

Truyện ngắn mới nhất của Nguyễn Bích Lan viết trong mùa bão lũ - những ngày cơn bão số 10 đổ vào quê nhà Thái Bình. Người trong bão hoàn thành khi lụt lội lại hoành hành dải đất miền Trung. “Xem những hình ảnh trên tivi mà không thể nào kìm được những giọt nước mắt” - gửi thư cho TTCT, cây bút trẻ đang đau đớn vì bệnh tật (“Không gục ngã”, Tuổi Trẻ ngày 12 đến 17-3-2009) nói vậy, và nói thêm: “Nếu đăng được, nhờ các anh chị chuyển nhuận bút vào quỹ giúp nạn nhân của trận lụt đang xảy ra ở Nam Trung bộ”.

Nhưng mưa, tôi và Nhã chưa bao giờ như thế này. Mưa thì quyết liệt chưa từng thấy. Nhã thì nằm quay mặt vào tường nghiền ngẫm về cái chết của mình. Tôi thì nhìn mưa, nghĩ tới Nhã và chẳng biết phải làm gì.

Ngày chồng Nhã bị ôtô đâm, tôi bảo Nhã: “Trời bắt thế thì phải chịu chứ biết làm sao”. Khi ấy tôi nói thế trong lòng còn cầm chắc rằng một người phụ nữ hai mươi tư tuổi đẹp người tốt nết như Nhã sẽ gặp và làm lại từ đầu với một người đàn ông yêu thương Nhã.

Bây giờ tôi không biết phải nói gì, không biết nên nghĩ thế nào. Nhã hiểu lòng tôi khi tôi im lặng. Nhã biết mưa lần này khác mọi lần cho dù Nhã không nhìn ra mưa.

Bây giờ mưa, tôi và Nhã còn có thêm bóng tối. Không có một mống muỗi nào trên cái tầng ba còn nồng mùi sơn này. Nhã im lặng. Tôi im lặng. Mưa vẫn đập chan chát vào cửa kính và nện thình thình trên mái tôn. Bỗng Nhã ngồi bật dậy:

- Cậu có nghe thấy tiếng gì không?

- Không - tôi trả lời khi chưa thật sự dứt ra khỏi chuỗi suy nghĩ.

- Có tiếng kẻng... hình như từ dưới mạn Hậu thì phải. Cậu thử lắng nghe mà xem.

Tôi cố tập trung lắng nghe nhưng chỉ nghe thấy tiếng mưa hỗn tạp. Nhã nói tiếp giọng đầy lo lắng:

- Chẳng lẽ đê Hậu bị vỡ rồi. Sáng nay tớ thấy ôtô chở bao nhiêu là bao bị tre pheo ra đó.

- Vỡ đê thì phải có thông báo chứ?

- Điện thì mất, đường điện thoại chưa biết chừng cũng bị đứt ở đâu rồi. Rất có thể người ta đang dùng kẻng để báo động.

- Vỡ đê Hậu thì lụt to - tôi lẩm bẩm.

Nhã bảo tôi:

- Chúng mình xuống dưới nhà xem có tin gì không đi.

- Ừ.

Tôi và Nhã đi xuống cầu thang. Chúng tôi mở cánh cửa lớn hướng ra đường và thò đầu nhìn ra ngoài mặc cho mưa quất vào mặt. Trời tối và đang có mưa to nhưng hình như trên đường có những bóng người chuyển động. Chẳng nói trước với tôi, Nhã lẳng lặng mặc áo mưa lao ra ngoài, đuổi theo luồng sáng của một chiếc đèn pin. Vớ vội áo mưa của mình trên thanh vịn cầu thang tôi lao theo Nhã. Tôi đuổi kịp Nhã khi Nhã dừng lại nói chuyện với người cầm đèn pin. Tôi nghe được tiếng người cầm đèn pin tranh trội với tiếng mưa:

- Đê Hậu nguy lắm. Thanh niên các xã xung quanh đang được huy động để hộ đê. Đã có lệnh sơ tán dân rồi.

Nhã và người cầm đèn pin chạy về hướng làng Hậu. Tôi bắt kịp và túm lấy cánh tay Nhã giật lại:

- Nhã, cậu sẽ không xuống Hậu. Cậu ở nhà, nếu tình hình khẩn cấp cậu đưa người nhà cậu và người nhà mình lên nhà chú Hảo, cả hàng xóm nữa. Chỗ đó chứa được năm sáu mươi người.

Nhã giật tay ra, tiếp tục chạy theo người cầm đèn pin. Mưa không cho tôi giằng co với Nhã cũng không cho tôi thuyết phục Nhã bằng lời. Tôi chạy theo Nhã, Nhã chạy theo những ánh đèn pin chấp chới trên đường mỗi lúc một nhiều.

Chúng tôi đã ở cách chân đê chưa đầy một trăm mét. Ngay trước mặt chúng tôi, dưới ánh đèn từ những chiếc xe công nông đứng yên để máy nổ xình xịch, mưa buông xuống như những sợi mành mành dày đặc trùm lên hàng dài người đang vác, bê, đội những thúng đất to, những bao tải cát, những hòn đá, những tấm lưới sắt, những tấm bạt, những bó rào tre, những đoạn gỗ kìn kìn tiến về phía chân đê như đàn kiến tha mồi.

Xa hơn nữa, dưới chân một đoạn đê cách dốc chính chừng bốn mươi mét có rất nhiều người túm tụm lại một chỗ với đủ các tư thế ngồi, nghiêng, cúi. Dáng họ khuất vào nhau và đoạn đê gặp sự cố khuất sau họ. Con sông nằm ở nửa của bóng tối, rên rỉ trong cơn tức nước.

Chúng tôi bỏ con đường với những chiếc xe thồ, xe kéo tay, xe công nông để rẽ xuống một bờ mương rộng xuyên thẳng ra đoạn đê đó. Tôi bị tách khỏi Nhã bởi một đoàn người từ ngoài đê đi vào. Một người đàn ông cầm mai cắm mũi mai đánh sột xuống bờ mương ngay phía sau tôi và trong vài giây một hòn đất to cỡ bằng ba bốn hòn gạch được đặt lên tay tôi. Ai đó bảo tôi chuyển hòn đất cho người đứng phía trên. Một dây chuyền tải đất được thiết lập.

Những hòn đất được chuyển liên tiếp ra phía đê và trở về là những thông tin cập nhật nhất về đoạn đê bị sụt lún. “Bao nhiêu?”. “Ba mét”. “Phải hơn”. “Nước rỉ vào chưa?”. “Hình như là rồi”. “Tiếp tục mưa nữa là gay đấy’’. Đất đi, tin về. Đất đi, tin về. Không khả quan lắm. Không có gì chắc cả.

Mưa vẫn ào ào đổ xuống. Từ phía chân đê bỗng rộ lên những tiếng la ó át cả tiếng mưa. Người ta vừa phát hiện ra một vết nứt mới cách vết nứt cũ gần hai mươi mét. Mắt tôi bị hút vào luồng ánh sáng rọi lên đoạn đê có vết nứt mới. Không ai từ chỗ chúng tôi có thể nhìn thấy vết nứt, chỉ toàn thấy người là người. Người đã đổ xô đến chỗ vết nứt như thể muốn lấy thân người mà vít kín nó.

Những hòn đất đến tay tôi mỗi lúc một nhanh. Tôi bấm ngón chân trên bờ mương đang hẹp dần cố gắng tập trung hết mức vào công việc như tình hình đòi hỏi mình phải thế trong khi vẫn cố bám sát Nhã bằng ánh mắt. Bóng Nhã lúc khuất lúc hiện trong nhóm người đang hối hả chuyển đất ở phía trên. Tôi cảm thấy đêm nay tôi không được rời mắt khỏi Nhã cũng như người ta không thể rời mắt khỏi con đê này.

Bộ đội tới trên những chiếc xe tải chở người, chở đá cùng với cuốc xẻng và những tấm lưới chắn. Họ mặc những chiếc áo mưa giống nhau, toàn một màu xanh. Những chiếc bao tải trên vai họ toàn một màu trắng. Sao trên mũ họ ánh lên những tia sáng lấp lánh. Họ di chuyển như những đợt sóng trên cánh đồng ven đê. Mưa đang ngớt dần.

***

Con đê đã trụ được. Một người lái xe tải tôi gặp ở dốc đê cho hay đã gần một giờ đêm. Tôi đã tìm Nhã suốt từ lúc lệnh ở trên đê truyền xuống rằng chúng tôi không phải chuyển đất lên đó nữa. Tôi đã lợi dụng tất cả những luồng sáng từ những ngọn đèn, đã bám theo tất cả những bóng người tôi tưởng là Nhã. Tôi đã gọi tên Nhã khắp cả quãng đồng vẫn còn lố nhố những người hộ đê. Tôi đã hỏi tất cả những ai biết tôi và biết Nhã. Tôi phải chắc chắn Nhã không còn ở ngoài đê nữa.

Tôi tìm Nhã dọc đường về qua ánh đèn pin của những người đi đường. Tới nhà Nhã tôi thấy cổng ngoài khóa kỹ chứng tỏ mọi người đã đi sơ tán cả. Tôi về thẳng căn nhà mới xây của chú Hảo. Những người sơ tán đã ở đầy cả ba tầng của căn nhà. Từ ngoài cửa tôi nghe thấy những tiếng nói chuyện, tiếng gọi nhau, tiếng dỗ trẻ vọng xuống từ trên gác. Có khoảng gần chục người đang ngồi bệt dưới sàn tầng một quanh một chiếc đèn pin Trung Quốc. Thấy tôi họ đứng cả dậy, xúm lại hỏi về tình hình đê. Tôi trả lời ngắn gọn vừa đủ để họ yên tâm rồi đi lên gác. Một thằng bé đứng bám thanh vịn cầu thang nhận ra tôi, cất tiếng hỏi:

- Cô Quế ơi! Cô có biết thím Nhã cháu đâu không? Em Thanh cháu cứ đòi thím Nhã bế mới chịu ngủ.

Thì ra thằng bé là con anh chồng của Nhã. Tôi hỏi lại nó:

- Thế thím ấy chưa về đây sao?

- Chưa, thím ấy đưa bà, cháu với em Thanh đến đây xong thím ấy lại đi.

Tôi quay xuống mượn chiếc đèn pin của những người ở tầng một rồi lao ra ngoài.

Cái lều của ông Bao coi đầm sen nằm chơ vơ như một chiếc dù rách cách bờ đầm hơn sáu mét. Sen đã tàn. Cơn mưa đã vùi mùi thơm của những bông sen cuối cùng xuống dưới mặt nước nên tôi chẳng ngửi thấy gì ngoài mùi nước mưa khét khét quyện với mùi lá sen úa rữa. Những cây luồng được ghép lại làm cầu dẫn ra lều đã thâm đen lại vì ngấm mưa.

Những sợi nilông buộc ngang thân chúng hầu hết đã sờn đứt khiến việc đi ra lều trở thành một việc mạo hiểm như đi trên dây. Phải cẩn thận lắm tôi mới giữ được thăng bằng để ra tới lều. Không có ai ở trong lều. Chiếc đèn pin tôi cầm trên tay quét ánh sáng sắp cạn của nó quanh lều. Những chiếc nậm nằm chỏng chơ dưới sàn lều cùng với những chiếc nút bằng lá chuối khô xổ lua tua hiện ra trước mắt tôi. Trên nóc lều những sợi dây treo nậm lủng lẳng trong gió như những chiếc thòng lọng.

Tuần rằm mồng một nào tôi cũng ra đây tìm ông Bao mua hoa sen về thắp hương nhưng chưa bao giờ tôi thấy những nậm rượu của ông ấy bị đối xử như thế này. Ông ấy quý những nậm rượu như tôi quý những bông sen trên đầm. Tôi thường thấy ông Bao treo những nậm rượu thành từng cặp từng cặp trên những thân luồng đỡ mái lều như người ta treo những chiếc chuông gió.

Nhiều lần tôi gặp cảnh ông Bao cùng những ông già chăn bò vừa ngồi uống rượu vừa nâng những cái nậm trên tay ngắm nghía. Gió bão đã thổi tất cả những nậm rượu xuống đất hay ai đó đã uống hết rượu trong nậm và chẳng nghĩ được tới việc xếp chúng lại cho gọn mắt? Tôi soi đi soi lại vùng nước quanh lều rồi đành đánh vật với những cây luồng trơn ướt để trở vào bờ.

Trên đường về làng tâm trí tôi bị xâm chiếm bởi một nỗi sợ hãi. Nỗi sợ hãi đã át cả cảm giác kiệt sức vây bó tôi từ lúc ở ngoài đê. Sau tất cả những gì tôi chứng kiến ngoài đê, tôi không muốn phải đơn độc chống lại nỗi sợ hãi đó. Tôi muốn tìm ai đó biết trấn an tôi, chí ít để tôi có thể vững trí tiếp tục đi tìm Nhã.

Tôi dừng lại trước cửa bưu điện văn hóa xã và phát hiện ra cánh cửa không khóa. Dạo này Nhã rất hay quên khóa cửa bưu điện. Có tối Nhã phải đền bưu điện một chiếc điện thoại. Đã có lần tôi gọi Nhã là bà già lẩm cẩm. Bây giờ thì tôi hiểu tại sao gần đây Nhã lại hay quên như thế. Tôi đẩy cánh cửa bước vào trong và đẩy tiếp cánh cửa kính của buồng điện thoại. Tôi rọi đèn pin lên bàn phím điện thoại và bấm số bằng những ngón tay run rẩy. Giọng Hoàng vang lên ngay sau tiếng tít đầu tiên chứng tỏ Hoàng chưa ngủ.

- Em đây - tôi nói vào máy.

- Em không sao chứ? Anh nghe đài nói ở nhà mưa bão to lắm. Từ tối tới giờ anh gọi về không biết bao nhiêu lần mà chẳng ai nhấc máy. Anh lo muốn chết.

- Anh đừng lo, bão tan rồi.

- Em này, anh nghĩ kỹ rồi, tuần sau anh xin nghỉ phép. Anh về lần này chúng mình cưới nhé?

- Biết sợ mất em rồi phải không?

- Ừ... Em đồng ý nhé?

Rốt cuộc cái điều tôi chờ đợi suốt mười năm lại đến thật nhanh vào lúc tôi không ngờ nhất. Tôi gật đầu quên mất tôi và Hoàng đang ở cách nhau cả ngàn cây số. “Em làm gì vậy?” - Hoàng hỏi. “Em gật đầu”. Tôi nghe thấy tiếng Hoàng cười trong máy. Tôi sắp sửa nói cho Hoàng biết tôi đang sợ mất Nhã đến mức nào thì đột nhiên từ góc phòng vang lên một giọng nói quen thuộc:

- Cậu ra tối hậu thư chưa?

- Nhã!

Tôi buông điện thoại lần tới chỗ Nhã. Nhã đang nằm trên chiếc bàn dài thường ngày dùng làm chỗ đọc báo cho người dân trong xã. Phía trên Nhã những tập sách báo đã được chuyển lên những ngăn cao của giá sách và nóc tủ. Thì ra Nhã đã về đây thu dọn chống lụt từ lúc nào. Tôi tìm tay Nhã, khẽ siết.

- Cậu về chẳng nói với mình để mình tìm suốt mấy tiếng đồng hồ.

- Cậu đã ra cả cái lều ngoài đầm sen rồi chứ gì?

- Ừ.

Nhã cười khe khẽ.

Tôi báo cho Nhã biết Hoàng đã cầu hôn tôi. Nhã siết chặt bàn tay tôi thay cho lời mừng. Không cần nói ra, trong lòng Nhã biết đón đợi tôi sẽ là những ngày nắng. Còn với Nhã, phía trước dù là những cơn bão tôi vẫn tin Nhã sẽ không phải đương đầu với bão tố một mình.

Truyện ngắn của NGUYỄN BÍCH LAN

Truyện ngắn: Kẻ đạo thơ

Lão tôn sùng sự sáng tạo, đặc biệt mê thơ. Đối với lão, thơ nằm ngoài phạm trù vật chất, là sự đối lập của mọi loại cặn bã đang ngày một dày lên trong cuộc sống.

Minh họa: Nguyễn Ngọc Thuần

Thi thoảng lão nổi hứng làm thơ. Thi thoảng thơ của lão được đọc tại câu lạc bộ hưu trí của phường. Trong khi nhiều cá nhân cho rằng chỉ những người làm thơ được kết nạp vào Hội Nhà văn trung ương mới được gọi là nhà thơ, bản thân lão lại nghĩ thuần những ai có thơ được nhiều người đọc thì đều đáng được gọi là nhà thơ. Theo tiêu chuẩn ấy, lão trở thành nhà thơ một cách khá bất ngờ.

Chuyện bắt đầu từ một món lộc trời. Đầu năm ngoái khu đất ở cuối thị xã được một đại gia mua để xây dựng siêu thị. Mảnh vườn gần nghĩa địa của nhà lão được đại gia ấy thuê làm bãi đỗ xe. Chẳng phải trồng trọt lão cũng “gặt” được 200 triệu đồng! Từ đó lão cứ thấy người lâng lâng.

Mỗi lần nhìn tòa nhà siêu thị đang được xây dựng lòng lão lại dâng lên một niềm cảm hứng kỳ lạ. Lão hạ quyết tâm phải làm bằng được một bài thơ ca ngợi cái siêu thị ấy. Một buổi chiều, đứng ngắm cái tháp cao ngất trên nóc tòa nhà siêu thị đổ bóng xuống những ngôi mộ, lão cố vắt óc nghĩ ra được câu thơ mở đầu. Thế rồi những con chữ nối đuôi nhau hiện ra, chậm nhưng đều đặn như những giọt rượu đã được chưng cất.

Sau một tiếng đồng hồ thăng hoa với thơ, lão đã có trong tay một bài thơ trọn vẹn gồm chín câu thơ lục bát giăng kín cả mặt sau của một tờ lịch khổ lớn. Lão khoan thai đọc thành tiếng từng câu thơ. Mượt! Lão nghĩ tuy được làm theo thể thơ truyền thống, bài thơ rõ là một thi phẩm độc đáo. Bởi lão tin rằng trên địa cầu chẳng có nhiều bài thơ nói về một cái siêu thị, càng hiếm có một bài thơ nêu bật được sự tương phản đầy ý nghĩa giữa một thực thể non trẻ và mới mẻ của nền kinh tế thị trường và một cái nghĩa địa, một sự gợi ý rất xưa cũ, tẻ nhạt về cái chết. Lão hết sức tâm đắc với bài thơ.

Hai tháng trước khi cái siêu thị khai trương, lão lần theo các mối quan hệ, tiếp cận được với ông chủ của siêu thị. Thật trùng hợp, đại gia cũng là người mê thơ:

“Bác dùng tài năng, tâm huyết và thời gian làm một bài thơ hào sảng như vậy để ca ngợi cái siêu thị của tôi quả là quý hóa vô cùng. Tôi xin phép được sử dụng bài thơ này làm tuyên ngôn cho siêu thị. Nói đúng hơn, tôi xin mua tác quyền của bài thơ này để sử dụng một cách hợp pháp”.

Lão kiên quyết từ chối món tiền tác quyền mà ông ta đề nghị trả bởi vì với lão, thơ là một thứ nằm ngoài phạm trù vật chất. Lão tặng quyền sử dụng bài thơ cho ông chủ siêu thị.

Trước lễ khai trương, bài thơ của lão được đánh máy rõ ràng từng chữ, được phôtô thành nhiều bản kèm với thông tin quảng cáo cho siêu thị và được phát tới hàng nghìn hộ dân trong thị xã.

Lão tin rằng bài thơ đến tay ai thì người đó nhất định đọc nó từ đầu đến cuối. Lão tin rằng mình đã trở thành một nhà thơ đích thực.

Bài thơ của lão xuất hiện dưới dạng các chữ cắt dán khổ lớn trên dải băng đỏ được treo từ nóc xuống tận sảnh lớn của siêu thị trong ngày khai trương. Không những thế nó còn được đăng trên trang web của siêu thị.

Đó cũng là khởi đầu của sự kết thúc đối với giấc mơ đẹp tưởng chừng bất tận của lão.

Khi siêu thị vẫn còn đang trong tháng khuyến mãi tưng bừng thì uy tín của nó bị đe dọa. Một tác giả có bút danh là Tâm Tài lên tiếng cáo buộc siêu thị và bất cứ ai đứng sau nó tội đạo thơ. Người này chỉ rõ bài thơ được dùng làm tuyên ngôn của siêu thị có những câu được chép nguyên xi từ một bài thơ anh ta đã sáng tác cách đó chưa lâu, bài thơ đã được in trong một tập thơ kỷ niệm ngày thành lập thị xã. Trong buổi thương lượng gồm tất cả các bên có liên quan, lão kiên quyết không thừa nhận mình là kẻ đạo thơ. Lão giải thích sự cố trên là sự trùng lặp kỳ lạ trong hoạt động sáng tác. Vừa ngơi mồm, lão đã biết ngay chính mình cũng không tin được. Nhưng sự thật của lão còn khó tin hơn: lão bị bộ óc của mình phản bội, nó cho phép lão nhớ lại thơ người khác nhưng lại để mặc lão lầm tưởng là thơ của chính mình.

Ông chủ siêu thị không muốn chuyện lùm xùm lan rộng liền đề nghị bồi thường tác giả Tâm Tài một khoản tiền. Tâm Tài kiên quyết không nhận tiền. Anh ta có chung quan điểm với lão; anh ta nghĩ thuần những gì là thơ đều nằm ngoài phạm trù vật chất. Miễn bàn.

Không có chuyện kiện tụng xung quanh bài thơ, nhưng hầu hết các báo trong tỉnh đều đăng bài về vụ đạo thơ. Từ một người làm thơ tay ngang chưa đầy ba mươi tuổi, tác giả Tâm Tài bỗng nhiên trở thành ngôi sao của giới truyền thông cấp tỉnh. Từ các bài trả lời phỏng vấn đầy mỉa mai về thời buổi xuống cấp đạo đức trong hoạt động sáng tạo, anh ta hăng hái phổ biến các phương pháp làm mới thơ, quảng bá thơ...

Tác giả Tâm Tài trở nên nổi tiếng chỉ sau một đêm. Tình hình cho thấy nếu có cơ hội anh ta sẵn sàng làm ngôi sao của giới truyền thông cấp quốc gia. Lo sợ bị cả nước coi là kẻ tội đồ, lão đành đến gặp Tâm Tài trực tiếp xin lỗi vì đã “sử dụng” một số câu thơ của anh ta mà không xin phép.

Sẵn máu ngông cuồng, Tâm Tài buộc lão phải thực hiện một việc chưa từng có trong làng thơ: anh ta buộc lão thề rằng từ nay về sau không làm thơ nữa!

Cực chẳng đã, lão đành chấp nhận để gã thi sĩ non choẹt đó nhấn cái nút tắt vĩnh viễn đối với toàn bộ cảm hứng thi ca của mình theo cách dứt khoát và triệt để, chẳng khác gì cách người ta dùng phương pháp triệt sản ngăn không cho các đối tượng đang ở độ tuổi sinh đẻ sinh ra những đứa con ngoài ý muốn.

Truyện 1.193 chữ của NGUYỄN BÍCH LAN

Truyện ngắn: Người cha điếc

Tiếng kẻng báo động xoáy vào màng nhĩ trong khi mẹ tôi chộp cánh tay tôi lôi tới hầm trú ẩn. Anh tôi chui xuống hầm trước tiên nhanh như một con chuột tìm về hang của nó.

Vừa đặt chân xuống nền hầm, anh lập tức chìa hai tay ra đón đứa em gái nhỏ. Như mọi lần, việc xuống hầm của tôi diễn ra chậm chạp, nhùng nhằng thể hiện ít nhiều sự chống đối. Nhưng lần này có vẻ mẹ tôi cũng không khẩn trương lắm.

Minh họa: Hoàng Tường

- Mẹ, xuống nhanh đi, mẹ! - Anh tôi thò đầu lên miệng hầm thúc giục.

Cuối cùng thì bốn mẹ con tôi cũng đã ở yên trong hầm.

- Cha đâu? - Tôi hỏi ngay khi cảm nhận được căn hầm bớt chật chội do không có cha.

Mẹ và anh tôi không ai trả lời. Em gái tôi bắt đầu cự lại bóng tối bằng điệp khúc "ta ta ta" của nó.

Với tôi hầm tránh bom là một nơi đáng ghét. Suốt thời gian ở trong đó tôi luôn cảm thấy khó thở, bức bối và ngứa ngáy chân tay. Còn nữa, ở trong hầm trú bom người nhà tôi không nói chuyện với nhau.

Tôi chẳng biết làm gì khác hơn là theo đuổi những ý nghĩ về trận ném bom. Tôi áp tai vào vách hầm lắng nghe.

Dường như trên mặt đất rất ồn. Những tiếng gì đó nghe ầm ù như thể một cơn dông lớn kèm theo sấm đang tràn tới làng. Tôi băn khoăn không biết những chiếc máy bay ném bom, cái thứ phát ra âm thanh giống cơn dông ấy, có kèm theo mưa hay không. Nếu nó mang theo mưa thì chúng tôi sẽ chết đuối trong hầm mất. Chết, dù gì cũng chết. Nhưng chết nghĩa là gì nhỉ?

Mười phút trôi qua và có vẻ như mặt đất đã trở lại yên tĩnh. Tôi nhấp nhổm muốn đứng dậy nhưng bị mẹ túm áo bắt ngồi yên.

Chúng tôi đợi thêm mười phút nữa cho tới khi những con gà mái trong vườn bắt đầu cục tác.

Mẹ tôi leo lên mặt đất trước nhất. Sau khi đã chắc chắn về sự an toàn, mẹ cho phép chúng tôi lên theo.

Ra khỏi hầm luôn khó hơn lúc vào. Mẹ tôi phải kéo tay tôi trong khi anh tôi đẩy cái mông chậm chạp của tôi lên.

Lên tới mặt đất tôi đưa mắt nhìn xung quanh. Vườn, nhà, ao chuôm của chúng tôi vẫn y nguyên không có gì khác. Tôi đưa mắt nhìn xa hơn tới những nhà hàng xóm. Tất cả vẫn như cũ. Tôi hơi thất vọng khi nghĩ rằng trận ném bom chẳng để lại một dấu vết nào. Đài nói rằng đã năm lần máy bay ném bom vùng này nhưng tôi vẫn chưa có tí khái niệm nào về một đợt ném bom cả.

Mẹ tôi luôn bắt chúng tôi xuống hầm ngay lúc tiếng kẻng báo động đầu tiên vang lên và ở dưới hầm chúng tôi đâu có thể nhìn xuyên qua đất để mà biết một đợt ném bom nó ra làm sao. Tôi ước tôi có đủ can đảm chống lại cái luật tránh bom của mẹ để ở lại trên mặt đất chứng kiến tận mắt một đợt ném bom. Có lẽ tôi chẳng cần phải làm gì nhiều, chỉ cần "quên" về hầm như cha tôi là đủ.

Anh trai tôi bảo rằng bom nghĩa là chết, mặc dù anh ấy cũng chưa bao giờ thấy một đợt ném bom. Anh ấy giải thích như thế thì thà đừng giải thích còn hơn. Tôi cũng có biết chết là gì đâu.

"Đừng có quên đấy!" - mẹ tôi lên tiếng cảnh báo khi chúng tôi mới chỉ rời cái miệng hầm tránh bom được một hoặc hai bước chân.

Tôi không thích cái luật của mẹ. Tôi ghét phải sống với một cái luật như thế. Trẻ con cần phải chạy nhảy, cần được đi chơi lang thang trong khi cái luật của mẹ không cho phép chúng tôi ở cách xa hầm tránh bom quá mười bước chân. Vi phạm một bước bị phạt mười roi. Tôi hỏi mẹ bằng giọng cáu kỉnh: "Mãi mãi chúng con sẽ phải thế á?". Mẹ lườm tôi, đáp: "Hết ném bom hẵng hay".

Cái luật đó không chừa cha tôi. Mẹ dắt tay cha ra tận cửa hầm như mẹ đã làm với chúng tôi và nói to như quát, rõ ràng là để cái luật của mẹ xâm nhập bằng được vào lỗ tai không bình thường của cha.

Mẹ tôi bảo vì có những trận ném bom nên mẹ mới phải ra cái luật đó, nhưng vì tôi chẳng biết tí gì về một trận ném bom nên tôi không thể tức nó được. Tôi chỉ có thể tức mẹ. Tôi tức mẹ thay cho cả cha nữa. Cha không được tự do đi thả đó cá ở ngoài sông cũng giống như tôi không được đem cái cù đi các ngõ chơi vậy. Tôi tức mẹ đến nỗi đâm ra nghe lọt tai những lời chê bai sau lưng mẹ của cô tôi.

Cô tôi bảo mẹ tôi lúc nào cũng muốn làm bà tướng, rằng vì cha điếc nên mẹ bắt nạt cha. Cô tôi bảo rằng lẽ ra mẹ tôi nên biết ơn "cái điếc" của cha tôi mới phải bởi nếu không có nó thì cha tôi đã đi B từ lâu rồi; nếu không nhờ nó, mẹ tôi có lẽ chẳng còn chồng, chỉ còn cái giấy báo tử thôi. Mẹ và cô tôi đều yêu cha tôi nhưng họ lại ghét nhau, thật kỳ.

Mẹ nấu cơm trưa trong khi tôi và anh tôi thay nhau trông em gái. Mùi cơm sôi tỏa ra từ trong bếp khiến tôi sực nhớ đến cha. Tôi muốn đi tìm cha. Tôi ló đầu vào cửa bếp hỏi mẹ: "Mẹ ơi, sắp ăn cơm rồi, con đi tìm cha nhé?".

Mẹ cắn môi chau mày nhìn tôi. Rõ ràng là mẹ còn bực cha lắm. Tôi tưởng mẹ không cho tôi đi nhưng đột nhiên mẹ phẩy tay: "Sang cô Hòa mày mà gọi".

Mẹ tôi có lý. Chồng cô Hòa tôi đi B nên cha thường sang nhà cô giúp cô làm những việc của đàn ông. Tôi sẽ đến nhà cô Hòa, hẳn rồi. Nhưng tôi còn muốn qua nhà bà Ngâu, nhà cụ Thạo, muốn làm một chuyến quanh làng. Tôi cứ đi cho sướng cái chân miễn sao cuối cùng tôi tìm được cha về.

Thật thích khi có được một lý do để ngó vào mọi nhà trong làng. Tôi nhảy chân sáo qua cái cổng xây bằng gạch đỏ của nhà bà Ngâu, thò đầu vào cửa nhà cụ Thạo, kiễng chân nhìn qua cửa sổ nhà bác Tá nói chuyện với thằng Hùng con trai bác ấy một lát rồi lượn sang chùa kiếm một ít trái cây của cụ Từ.

Tôi thấy người làng truyền nhau tin về trận ném bom. Người ta bảo xã bên bị dính bom. Một người chết và ba người khác bị thương. Tất cả các nạn nhân vì những lý do khác nhau không kịp tới hầm trú ẩn. Tôi thấy sự nhẹ nhõm trên những khuôn mặt tôi gặp. Họ cười với tôi. Tôi cười với họ. Nhưng cha tôi đâu?

Tôi đến nhà cô tôi ở cuối làng. Cha tôi không có ở đó. Tôi quay ra bến sông nơi cha thường ngồi đợi nhấc những đó cá.

Bờ sông vắng teo. Nắng trưa gay gắt làm tôi chói mắt. Tôi cảm thấy đói cồn cào và cảm thấy bực với cha tôi.

Tôi về nhà với tin tức về trận ném bom. Mẹ không bình luận gì, chỉ giục chúng tôi mau đi ăn cơm còn mẹ thì ra giếng giặt.

Không có cha, tôi phải tự gỡ cá lấy, thỉnh thoảng tôi phải thò ngón tay vào kẽ răng cạy một chiếc xương răm mắc trong đó. Tôi đang ngồi trên bậc cửa nhai cơm thì chợt thấy hai người đàn bà đi từ phía đê xuống, vừa đi vừa nói chuyện với nhau. Người đàn bà béo đội chiếc nón vá bằng một mảnh vải màu tro nói: "Cái nhà anh ấy bị bom cưa mất một chân nhưng chính vết thương ở bụng mới là vết thương chết người".

Rồi bà ta nói thêm: "Kẻng báo động đánh chuẩn lắm. Anh ta điếc hay sao mà không nghe thấy".

Điếc. Chính cái từ ấy làm mẹ chết lặng. Tôi thấy tay mẹ đờ ra trong chậu giặt, rồi mẹ đứng dậy co chân chạy về phía hai người đàn bà vừa đi qua cửa nhà chúng tôi.

Tôi thấy hai người đàn bà chỉ tay về phía bờ sông và mẹ hớt hải chạy về hướng đó.

Chúng tôi chạy theo mẹ, bỏ chỗ cơm đang ăn dở cùng cái luật tránh bom lại phía sau.

Cho đến khi đặt chân lên đê tôi mới hiểu ra rằng trong chuyến đi tìm cha lúc trước tôi đã bỏ sót một điều.

Ở đoạn đê xa xa về phía bắc, quãng giáp ranh giữa làng tôi và làng kế bên có một cây gạo to. Nó nổi bật trên đê nhờ cái tán lớn. Tôi đã đến đó một lần để hái những bông hoa đỏ rực rỡ của nó. Đó là lần đầu tiên tôi tới đó, cũng là lần cuối cùng bởi mẹ tôi đã phát hiện việc ấy và cho tôi một trận đòn đau.

Giờ đây cái cây ấy đứng trơ trọi như một cái ô đã cụp. Nó bị cắt cụt ngọn. Trận bom. Chúng tôi nhận ra một đám người túm tụm ở một đoạn chân đê.

Mẹ chạy tới đó. Chúng tôi cố đuổi kịp mẹ.

Mẹ chạy vào giữa đám người, nhào tới chỗ một người đàn ông nằm sóng soài trên cỏ. Người ấy nằm sấp, hai cánh tay dang ra hai bên như một cây thánh giá. Một tấm chăn cũ màu nâu phủ kín phần thân thể bên dưới của người đàn ông. Tấm chăn có những chòm sẫm, màu của máu. Cách đó chừng ba bước chân, một cái đó đơm cá nằm chỏng chơ trên cỏ.

Người nằm đó là cha tôi.

Mẹ tôi cố lật người cha tôi lên, cố ôm cha bằng cả hai tay một cách tuyệt vọng. Mặt mẹ áp xuống vai cha. Tóc mẹ xổ tung, phủ khắp ngực cha. Người mẹ giật lên từng cơn dữ dội. Rồi mẹ nằm vật ra không động cựa.

Em gái tôi bập bẹ gọi "ta ta ta" và nhoẻn cười. Tôi và anh tôi gọi cha nước mắt dàn dụa.

Cha tôi không nhúc nhích, không mở mắt. Bằng cách nào đó tôi hiểu cha sẽ không bao giờ trả lời chúng tôi.

Bây giờ thì tôi đã biết thế nào là một trận ném bom. Bây giờ tôi cũng đã biết chết nghĩa là gì. Tôi muốn nói với cha rằng đáng lẽ cha không nên vi phạm luật tránh bom của mẹ, đáng lẽ cha không nên đi xa như thế để tìm những chiếc đó đơm cá, đáng lẽ cha không nên bị điếc... đáng lẽ...

Nhưng tôi biết cha tôi không nghe tôi nói, không nghe nữa, bây giờ và mãi mãi.

Người ta không tìm thấy một bên chân bị bom cắt của cha tôi. Họ nói rằng bất cứ lúc nào cũng có thể có bom vì vậy mọi người không nên ở bờ sông lâu. Chúng tôi đưa cha về.

Vào một ngày khác, khi không còn những trận ném bom, anh em tôi sẽ ra bờ sông này tìm bằng được một bên chân đã mất cho cha.

Truyện ngắn của NGUYỄN BÍCH LAN


"Chết nghĩa là gì nhỉ?", không dưng mà tác giả khắc khoải với điều cay nghiệt ấy. Thế là nhà văn hóa thân thành một đứa trẻ làng quê thời chạy bom trong tiếng kẻng. Chiến tranh đã sống lại, cha mẹ, anh em, xóm làng hiện lên chân thực, lạ thường. Chiến tranh đó, chiến tranh thật kỳ khôi và vô lý. Truyện của Nguyễn Bích Lan thường có sức khái quát cao, riêng cho chúng ta sự thú vị đặc biệt vì tác giả sinh năm 1976. Khoảnh khắc của chiến tranh được tái hiện bằng tài năng chứ không phải bằng trải nghiệm của chính nhà văn.

Bản tiếng Anh của trước đó đã được gửi đến một nhà văn nữ quen biết người Israel. Một truyện ngắn tuyệt vời về chiến tranh - nhà văn ấy tán thưởng và gửi đi tham dự Diễn đàn phát triển văn học, văn hóa và hòa bình ở Israel. Hữu xạ tự nhiên hương, với bản tiếng Việt này, chúng tôi tin truyện sẽ lại được độc giả ghi nhận và yêu mến như đã từng dành cho Nguyễn Bích Lan, trên tờ báo đã có công phát hiện và vun đắp cho cô.

Là dịch giả của 23 đầu sách đã in, tập truyện ngắn đầu tay của Nguyễn Bích Lan sắp được NXB Trẻ phát hành. Sống trong chờ đợi - một truyện hay trên TTCT - sẽ là tên gọi chung cho cả tập sách của cây bút trẻ đã vượt qua số phận để sống và viết.

DẠ NGÂN

Nguồn: tuoitre.vn

Ảnh đẹp: Trái tim của tự nhiên

"Follow your heart, but be quiet for a while first. Ask questions, then feel the answer. Learn to trust your heart."

Great Barrier Reef in Australia


Heart-shaped Tupai Island in French Polynesia

The Coeur de Voh in New Caledonia

In the heart of nature... by TOanaM

Heart-Shaped Mangrove, Voh, New Caledonia

Heart-Shaped Island, Gutierrez Lake, Patagonia

** Corsican Hearth ** by donluicu

The earth heart by iamxa

Heart-Shaped Forest, Cantabria, Spain

Heart-shaped island in the mangrove delta of the Vaza-Barris River in Brazil

Heart Lake and Spirea by nwalpineguide

Olympic National Park, Washington

Great Barrier Reef in Australia



Nguồn: amolife.com

Chủ Nhật, 2 tháng 10, 2011

Truyện ngắn : Hi Vọng

Cách đây sáu năm Mr Hope bước vào cuộc đời tôi. Ông ấy đến để nói chuyện. Chỉ nói chuyện mà thôi.

Minh họa: Nguyễn Ngọc Thuần

Thoạt đầu với tính nhút nhát của mình, tôi và Hope chỉ trò chuyện rất ít. Có những câu chuyện cụt ngủn, có những câu chuyện tắc ứ, có những câu chuyện không thể bắt đầu nổi mặc dù có sự cố gắng của cả hai bên. Nhưng tôi có những mười lăm tiếng đồng hồ thức mỗi ngày. Tôi níu lấy ông ấy.

Cũng có hôm tôi thấy oải chẳng muốn trò chuyện. Tôi nhìn đăm đăm vào góc tường tối. Hope bảo ông muốn tôi nói chuyện với ông theo cách tự nhiên và chân thật nhất. Thật may, trước khi gặp Hope tôi không có cơ hội tiếp xúc nhiều với những người có nghệ thuật nói chuyện để rồi bị ảnh hưởng bởi họ nếu không ông ấy sẽ chán không muốn trò chuyện với tôi nữa.

Dần dần Hope và tôi trở thành những người bạn của nhau. Nhu cầu được trò chuyện xuất phát từ cả phía ông ấy chứ không chỉ ở tôi.

Tôi sống với bố mẹ. Ở tuổi ngoài năm mươi, bố mẹ tôi đều tự nhận mình đã già. Già rồi họ không thích chuyện trò, ồn ã. Từ khi có những biến cố lớn xảy ra với tôi, đứa con duy nhất của họ, họ cảm thấy cuộc đời đã cướp trắng của họ cả hi vọng lẫn tương lai. Đang là một gia đình, họ rút vào thế giới của mình. Không phải thế giới của hai người mà là thế giới của mỗi người. Sống dưới một mái nhà, ba chúng tôi là ba thế giới riêng.

Từ lâu bố mẹ tôi đã thôi không lặng lẽ theo dõi tôi đang và đã làm gì, họ đáp ứng những nhu cầu sinh hoạt tối thiểu của tôi. Xong việc họ rút vào thế giới của họ, làm bạn với nỗi thất vọng không lời. Đã từ lâu họ biết không có thành quả nào chờ đợi tôi và họ ở phía trước cả.

Nhưng rồi việc tôi gặp Hope khiến họ chú ý. Có lần trong khi đang nói chuyện với Hope tôi thấy bóng mẹ tôi lấp ló sau cửa kính. Phát hiện ra sự riêng tư của mình đang bị xâm phạm, cả tôi và Hope đều cảnh giác. Tôi và ông ấy bắt đầu nói thầm. Chúng tôi thì thầm với nhau đủ thứ chuyện, thì thầm về những sợi tóc rụng trên gối của tôi, về những bông hoa bất tử đẹp bền bỉ trong cái vẻ khô kiệt của chúng, về những điều quá đỗi xa xôi và mơ hồ đối với cả tôi và Hope.

Đột nhiên nhà chúng tôi có khách. Một người em họ xa của mẹ tôi đến chơi. Trước đây tôi chỉ nghe nhắc đến tên người này nhưng chưa bao giờ gặp mặt. Bây giờ chẳng biết vì lý do gì hay do ngẫu hứng mà dì ấy đột nhiên tới chơi nhà chúng tôi. Lần đầu tiên tiếp xúc với dì tôi hơi ngại, đặc biệt khi tôi biết dì là một chuyên gia tâm lý đang chuẩn bị làm luận án tiến sĩ.

Dì ở lại nhà chúng tôi cả tuần, trò chuyện lả rả với mẹ tôi, ngồi trầm ngâm uống trà với bố tôi, lặng lẽ quan sát tôi. Tôi không hiểu vì sao dì lại có thể lưu lại cái gia đình tẻ nhạt của chúng tôi lâu đến thế.

Dì hay hỏi tôi những câu hỏi rất riêng tư. Đôi khi những câu hỏi của dì khiến tôi lùi sâu vào bên trong thế giới của mình. Có lần dì đưa cho tôi một bản câu hỏi trắc nghiệm gồm những câu hỏi kỳ quặc đại loại như: Bạn bị mất ngủ: a - 1/2 đêm, b - 2/3 đêm, c - trắng đêm. Bạn có hay gặp ác mộng không? Và nhiều câu hỏi kỳ cục khác.

Tôi đánh dấu các câu trả lời, với ý thức mình đang giúp dì hoàn thành một cuộc nghiên cứu liên quan đến luận án tiến sĩ. Tôi không mảy may băn khoăn, nhưng dì, khi cầm bản câu hỏi ấy lại có vẻ bối rối. Sự bối rối tạo nên quanh dì một thế giới riêng. Bốn chúng tôi là bốn thế giới lặng lẽ.

Trước ngày trở lại thành phố, dì có một cuộc trò chuyện thẳng thắn và cởi mở với tôi. Đến lúc ấy tôi mới biết mục đích chuyến lưu lại dài ngày của dì.

- Cách đây hai tháng mẹ cháu gọi điện cho dì. Mẹ cháu nghĩ cháu không ổn. Mẹ cháu kể cháu hay nằm nói một mình, có khi nói rất hăng hái, có khi nói thủ thỉ như thể bên cạnh cháu đang có ai đó. Mẹ cháu ngờ rằng cháu bị...

- Mẹ cháu ngờ rằng cháu bị tâm thần chứ gì?

Tôi bật cười chua chát.

Ý thức được vấn đề có thể sẽ bị phức tạp hóa đến độ nhức đầu, tôi bảo dì:

- Cháu vừa học xong đại học chưa kịp sử dụng vốn tiếng Anh đã học thì bị tai nạn. Ngày nào cũng nằm bẹp giường thế này cháu sợ sẽ quên hết những gì đã học được. Vậy nên cháu tưởng tượng ra một người để trò chuyện để cháu khỏi quên tiếng Anh, thế thôi.

Dì lặng người đi một lát, rồi cúi xuống ôm vai tôi. Dì bảo: “Ừ, dì hiểu rồi. Dì biết lý do không chỉ có thế thôi đâu” - giọng dì nghèn nghẹn.

“... Không chỉ có thế thôi đâu”, dì nói như vậy có nghĩa là dì hiểu cả những gì tôi không nói ra. Tự nhiên tôi thấy mình rưng rưng khóc ở trong lòng. Tự nhiên tôi thấy những gì mình có vào khoảnh khắc đó là cả một trời hi vọng.

Truyện ngắn 1.015 chữ của NGUYỄN BÍCH LAN

Thứ Bảy, 1 tháng 10, 2011

Truyện kinh doanh - Một đôi giày mới

Có một thời gian tôi cảm thấy rất chán nản và tôi đã tâm sự những điều đó với một người bạn của mình. Cậu ta đã khuyên tôi là nên thay đổi mọi thứ. Phải, tất cả mọi thứ.

Và tôi đã làm theo lời khuyên của cậu ấy.
Đầu tiên, tôi thay đổi cách ăn mặc. Nếu ngày xưa tôi chỉ mặc toàn đồ jean thì bây giờ tủ quần áo của tôi lại đầy những bộ quần âu, áo sơ mi trông rất lịch sự. Tôi thay đổi tất cả trang phục của mình chỉ trừ có một việc mà tôi thấy rất khó khăn đó là thay đôi bốt bằng một đôi giày tây.
Tôi đã gặp cậu bạn của tôi và bảo: "Tớ sẵn sàng thay đổi mọi thứ nhưng riêng cái thói quen đi giày này thì khó quá." Cậu ấy đã bảo tôi: "Như vậy là câu chưa-thực-sự-sẵn-sàng để thay đổi rồi."
Và tôi lại cố gắng quyết tâm. Tôi đi đến cửa hàng mua một đôi giày tây. Mặc dù cảm thấy rất khó chịu nhưng tôi vẫn nhất quyết không xỏ chân vào những đôi bốt quen thuộc của mình nữa.
Lạ lùng thay, sau một tháng tôi đã luyện cho mình được thói quen xỏ chân vào những đôi giày tây mà không cần phải đấu tranh, đắn đo hay suy nghĩ. Hơn nữa, những đôi giày tây còn khiến cho tôi không bị đau chân nữa.
Bạn thấy đấy, chỉ cần bạn sẵn sàng và quyết tâm thì bạn có thể làm được bất cứ chuyện gì cho dù nó lớn đến đâu. Còn nếu không có lòng quyết tâm thì bạn sẽ chẳng thể làm được gì cho dù chuyện đó chỉ nhỏ như việc đi một đôi giày tây.
Có ai đó nói rằng: "Hãy làm những điều nhỏ nhất theo một cách lớn để khi có những chuyện lớn xảy ra ta có thể giải quyết chúng theo một cách thật đơn giản."

Lượm lặt Internet